Những tình khúc Lê Uyên Phương, theo cách phân loại của nhạc sĩ Phạm Duy, ta có thể xếp vào lớp nhạc tình dục tính. Tất nhiên, lớp cảm tính và não tính, hoặc thậm chí ảo tính vẫn hiện diện rất thường trực. Nhưng liên tiếp từ Yêu nhau khi còn thơ (1967), Khi loài thú xa nhau (1969), Uyên ương trong lồng (1972), và Bầu trời vẫn còn xanh (1973), những nhịp thở nhân tình nồng nàn hấp hối vẫn là âm thanh ta nghe thấy lan tràn trên từng khuông nhạc. Mây Ngàn xin giới thiệu một bài báo viết về Lê Uyên Phương trên bán nguyệt san Thời Nay năm 1970.
Căn gác xép rộng nhưng thấp. Muốn đi phải cúi đầu xuống. Bên ngoài, những bông hoa trạng nguyên màu đỏ đung đưa lả lơi. Sàn gỗ bóng loáng. Vách và trần được sơn đều màu tím hồng. Một chiếc màn voan trắng mỏng treo giữa hai cây cột. Chiếc nệm đặt ngay trên sàn. Tủ sách gồm những cuốn tiếng Anh, Pháp và Việt. Bàn viết nhỏ bừa bộn những giòng nhạc viết dở dang. Đó là nơi Lê Uyên Phương trở về sau những tháng ngày mệt mỏi ở Saigon. Anh như một con thú trốn chạy ánh đèn màu. Không bao giờ quen được không khí phòng trà mặc dù trước đây đã từng chơi nhạc cho các hộp đêm. Đalat đối với anh như một chốn nghỉ ngơi. Đúng hơn như một thánh địa. Cái xứ sở có một khí hậu kỳ quái mang mang làm khắng khít tình yêu và làm xót xa những tâm hồn đơn lẻ. Trời cuối tháng mười lành lạnh. Phi cảng Liên Khương âm u trong bóng chiều tà. Lê Uyên Phương, với cây đàn trong tay, như muốn ôm lấy Đalat sau vài tháng cách xa. Anh ngửa mặt xuýt xoa. Dễ chịu quá! Đang hát mỗi đêm tại Queen Bee và Ritz, mỗi nơi bốn ngàn đồng một đêm trình diễn, anh đã bỏ hết để trở lại Đalat thần bí. Sống ở Saigon tôi chịu không được. Không viết được một dòng nhạc nào cả. Tôi gần điên lên. Kiếm được chút tiền về sống vài tháng đã.
Chuyến này anh về Đalat một mính để hoàn tất tập nhạc Thở Hơi Dã Thú. Người nữ của anh ở lại Saigon. Một giờ trước đây hai vợ chồng đã bịn rịn chia tay nhau như không muốn rời tại cửa ra phi đạo Tân Sơn Nhất. Tình yêu của họ chất ngất ngút ngàn. Họ chia nhau cả cái tên. Lê Uyên Phương là biệt hiệu của Lê Văn Lộc. Nay anh chia bớt cho người yêu một nửa. Nàng nhận hai chữ đầu Lê Uyên. Chàng dùng chữ cuối Phương. Tôi hỏi đùa anh cho mượn hay cho đứt. Cho đứt chứ! Cuộc đời mình còn cho nữa là cái tên. Lê Uyên tên trong khai sanh là Lâm Phi Anh. Thời hát ở Đalat lấy tên Cẩm Thúy. Chuyện tình của họ cũng dài và rắc rối không kém gì câu chuyện của những cái tên.
Trước hai ly trà nóng, người thanh niên có mái tóc chải ép sát xuống trán, chiếc miệng rộng hơi nhô ra, hàng râu mép lưa thưa, ngồi kể lại chuyện đời mình. Sinh trưởng tại Đalat, năm nay anh đã 29 tuổi. Năm 20 tuổi anh bắt đầu đặt nhạc. Những ngày lưu lạc từ Pleiku, Ban Mê Thuộc, Quy Nhơn tới Nha Trang, anh đã sống một đời cực nhọc thiếu thốn. Dạy học, làm dinh điền, đi hát để kiếm sống. Năm 1965 anh mới thực sự trở lại sống luôn ở Đalat. Một năm sau, chuyện tình của họ bắt đầu. Phương có trí nhớ thật ngắn ngủi. Tôi không nhớ được lời nhạc do chính mình sáng tác nhưng bà xã thì thuộc lời lắm. Khi hát anh phải hát theo vợ. Và đến câu chuyện tình của chính mình cũng chỉ nhớ loáng thoáng. Anh với tôi phải tìm những cái mốc thời gian một hồi mới xác định được là họ đã chính thức thành hôn vào tháng 11 năm 1968. Bậy quá hà! Sao mình không nhớ được gì hết! Anh vỗ trán than trách. Hồi đó Phi Anh từ Saigon lên Đalat học. Ở nội trú tại trường Virgo Maria. Nàng có người bà con ở gần nhà anh. Anh chỉ chỉ tay nói. Ở bên đây này. Căn phòng của anh ở đường Võ Tánh và tay anh chỉ về phía hồ Xuân Hương. Nàng quen em gái anh và thỉnh thoảng vẫn lui tới nhà. Lúc đầu nói chuyện thường thường rồi sau anh trở thành “cố vấn” của nàng. Nàng hỏi ý kiến anh đủ thứ chuyện kể cả chuyện yêu đương nhăng nhít. Họ yêu nhau lúc nào không biết. Tôi hỏi anh ngỏ tình yêu ở đâu. Trên đồi! Đalat có những ngọn đồi mộng mơ cho những kẻ yêu nhau quấn quít. Một chiều xuân đê mê gối chăn còn ấm da nồng. Tình dài đâu anh ơi đứt dây hững hờ. Một lần vui cho nhau để sầu muôn kiếp gối đầu trên bờ vực sâu đớm đau (Ngồi Lại Trên Đồi).
Chuyện tình của họ đòi đoạn đớn đau. Gia đình nàng không chấp nhận. Họ mê say trong trốn chạy. Hồi VC tấn công đợt hai vào tháng 5 năm 1968, hai người sống ở Saigon. Họ không có một chỗ gặp gỡ nhau. Suốt ngày hai người ngồi trong sân nhà ga Saigon. Thỉnh thoảng họ phải làm bộ ngoắc tay những hành khách ngồi trên xe ca của hãng Hàng Không Việt Nam cho ra vẻ ngồi chờ người nhà. Mỗi ngày chỉ có một mẩu bánh mì nhỏ trong bụng. Họ sống như vậy một tháng trời. Tình yêu của họ được kết hợp bằng những ngày không có nhau. Chính những ngày xa cách nhớ thương là thời gian anh sáng tác nhạc. Những bản nhạc đang dần dần quen thuộc với mọi người được kết tinh trong sự nhớ thương đó nên nặng mang sự chia phôi. Mười hai bài trong tập Khi Loài Thú Xa Nhau được viết trong thời kỳ này. Nó không còn mang tình yêu thơ mộng, tình yêu trong trí tưởng, thật xa và thật huyền diệu như mười bài trong tập Yêu Nhau Khi Còn Thơ được sáng tác trong thời kỳ trước đó khi chưa gặp Lê Uyên.
Tiếng Lê Uyên và Phương từ chiếc máy cassette quấn lấy nhau vọng ra. Giờ này còn gần nhau. Gần thắm thiết trong mối sầu. Gần bối rối biên giới từ lòng đau. Giờ này còn cầm tay. Cầm chắc mối duyên bẽ bàng. Cầm chắc mắt môi ngỡ ngàng. Cầm giá buốt thương đau. Ngày mai ta không còn thấy nhau… Lệ ngập ngừng bờ mi. Giọt nước mắt lăn nỗi buồn. Giọt nước mắt xa cách vời vợi trông. Giờ này còn nhìn nhau. Nhìn đắm đuối như suối bền. Nhìn suốt kiếp như chết mòn. Nhìn hấp hối thương đau. Ngày mai ta không còn thấy nhau (Cho Lần Cuối). Anh khẽ bảo tôi chính vì bài này mà người ta đồn là anh sắp chết. Bệnh tật của anh đã trở thành huyền thoại. Người ta bảo là anh chỉ còn sống được một năm nữa. Người ta đồn là vào năm 1972 anh sẽ chết. Tôi đã định hỏi về những chuyện này từ lâu nhưng thật khó bắt đầu. Lợi dụng cơ hội này tôi hỏi kỹ càng. Anh đưa bàn tay trái cho tôi coi. Trên lưng ngón tay trỏ nổi lên một cục bằng trái cà chua nhỏ đỏ au và mòng mọng. Những đường gân máu chạy nổi thấy rõ. Bác sĩ cũng chưa thể định là bệnh gì. Bây giờ nó đã nổi thêm trên mấy ngón khác và một vài chỗ trong người. Muốn chữa bây giờ chỉ có thể cắt ngón tay này nhưng tôi chưa muốn cắt. Anh xác nhận là những bài ca viết về sự chia phôi không phảo là do bị ám ảnh bởi cái chết nhìn thấy trước mà do sự rắc rối và xa cách của mối tình đẹp nhất đời anh và khi được hạnh phúc anh luôn luôn sợ ngày nó sẽ hết. Người nghệ sĩ không những sống cho mình mà còn thông cảm được với cuộc sống của những người khác. Anh đã nhìn thấy cái chết và đã nghĩ nhiều về cái chết. Dân Đalat vẫn chưa quên vụ án mạng vì tình ở quán Tình Nhớ. Người con gái duyên dáng đã nằm xuống với những viên đạn trên người. Phương đã nhìn thấy đám tang, nghĩ về cái chết. Cuộc đời đó qua như ngày đông. Phòng lạnh giá môi xô nụ hôn. Người nằm đó xin cho được yên. Còn tìm đâu áo mát thanh xuân ấp hơi nồng trên da thịt đầy. Còn tìm đâu gối thắm đê mê, còn gì đâu. Tình tình ơi đã chết trong mơ, sống bên ngoài như qua mộng hờ. Đành vùi sâu số kiếp không đâu, còn lại đây khối trơ tình sầu (Đưa Người Tuyệt Vọng). Người con gái khiến anh sáng tác bản Tình Khúc Cho Em chỉ là mối tình mê đắm của cô nàng với bạn anh mà anh chỉ tham dự như một vai trò bất đắc dĩ. Cho em môi hôn vội vàng. Cho em quen ân tình sâu. Dù em không mong dài lâu. Xin cất lấy ước mơ đầu. Xin cho yêu em nồng nàn dù tháng năm buồn vui bàng hoàng. Vì đâu mê say phồn hoa, như áo gấm sáng lóng lánh, ôm rách nát không tâm linh, ôm tiếng hát không hơi rung nghèo nàn. Còn yêu chi hoa ngày xanh héo hon vì mong manh bỏ quên lại người sau ngỡ ngàng. Thương em khi yêu lần đầu. thương em lo ân tình sau, dù gương xưa không được lau, soi lấy bóng mối duyên sầu. Cho tôi yêu em nồng nàn dù biết yêu tình yêu muộn màng (Tình Khúc Cho Em).
Bệnh tật đối với anh phải là một nỗi ám ảnh không rời nhưng chính cái ngón tay tội nghiệp đó đã cản trở nhiều cho nghề nghiệp của anh. Năm 11 tuổi anh đã học vĩ cầm với Giáo sư Francois Régor, người Ý, lúc đó đã 80 tuổi. Anh chơi vĩ cầm rất khá nhưng nay đã phải bỏ hoàn toàn. Tôi nhìn hộp vĩ cầm đóng bụi nằm trên giá sách. Anh ngồi cúi mặt trầm ngâm. Tôi phá vỡ sự im lặng nặng nề bằng cách hỏi về số lợi tức kiếm được khi cho thâu cuộn băng 12 Tình Khúc Lê Uyên Phương. Tôi được chia 50% tiền lời. Tới bây giờ đã thu được 100 ngàn đồng. Tôi với tay lấy cuốn sách hình trẻ con nhỏ xíu và ngạc nhiên khi thấy nhiều cuốn sách loại này trên chiếc giá bằng sắt xinh xắn. Tôi có một cháu bé hai tuổi nhưng sách hình này để cho bà xã coi. Bà ấy thích coi hình lắm. Người nữ ca sĩ 20 tuổi nhưng có khuôn mặt từng trải lại mang một tâm hồn hết sức trẻ thơ. Nghe cái giọng khàn khàn khắc khoải của Lê Uyên không ai nghĩ tới cái sở thích vô tội như vậy. Bà xã mình hát nhạc của mình hợp ghê hả? Kỳ vậy chứ! Nhạc của anh đến trong đầu anh thật bất ngờ. Anh cố gắng tả cho tôi thấy là có những lúc tự nhiên anh nghe thấy rõ ràng cả một câu nhạc trong đầu. Như lần anh đi hội chợ Domaine de Marie. Mỗi năm hội chợ này được tổ chức trên một ngọn đồi đẹp dễ sợ. Khi anh đang đứng trong hội chợ vào một đêm mùa đông thì anh nghe được điệu nhạc và vội chạy về ghi lại. Tới hai giờ sáng, nghĩa là 5 tiếng đồng hồ sau, anh hoàn thành bản Đêm Chợ Phiên Mùa Đông.
Tập nhạc Thở Hơi Dã Thú mà anh định hoàn tất trong chuyến trở về Đalat lần này sẽ bắt đầu bằng bài Vũng Lầy Của Chúng ta. Đây là bản nhạc anh đã thai nghén trong nhiều năm trời. Anh nghĩ về trách nhiệm khi đón nhận hôn nhân. Anh tự hứa là phải viết nhưng nhiều năm trôi qua bản nhạc mới được ghi những dòng cuối cùng. Theo em xuống phố trưa nay, đang còn ngất ngất cơn say. Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau. Cho nhau hết cả mê say. Cho nhau hết cả chua cay. Cho nhau chắt hết thơ ngây, trên cánh môi say, trên những đôi tay, trên ngón chân bước về tình buồn tình buồn…Qua đi qua đi dứt cơn mê, tình buồn chồng chất lê thê. Qua đi qua đi dứt cơn say, tình này tình rồi thay. Ta sống trong vũng lầy một ngày vùi dần còn vùi sâu, còn vùi sâu trong ngao ngán không dứt hết cơn ê chề. Ta sống trong vũng lầy, một ngày vùi dần, còn vùi sâu, còn vùi sâu trong ngao ngán không dứt hết một lần đau.
Đalat hoang sơ quyến rũ đã đưa anh trở về những rung cảm nguyên thủy của buổi hồng hoang. Không có Đalat chắc khó có một thứ nhạc độc đáo Lê Uyên Phương. Mỗi ngày anh thức dậy từ sớm đi lang thang khắp núi đồi Đalat tới khoàng nắng lên thì trở về nhà nghỉ. Khi mặt trời đi ngủ anh lại đi cho tới tối trở về ngồi vào viết tới sáng. Anh sẽ trở lại Saigon khi Thở Hơi Dã Thú hoàn tất.
Trời cuối tháng mười lành lạnh. Tôi nhìn màu xanh Đalat trong cơn mê ngủ quái dị. Em yêu dấu, anh một mình trở lại thành phố kỷ niệm này để lang thang trên những lối mòn đồi núi bị chặn lại bằng từng gốc cây ân tình. Anh như chênh vênh trong niềm hạnh phúc vẫn còn lãng đãng rơi rắc lại trên những ngọn cỏ non nớt. Trời Đalat lạnh tê tái.
Song Thao
Thời Nay, số 266, phát hành ngày 15 tháng 11 năm 1970